TOP 10 Thuật lừa đảo trong giang hồ

Phong, mã, yến, tước, từ, kim, bình, bì, thái, quải tức chỉ mười thuật lừa đảo, hơn nữa còn chỉ mười loại người hoặc tổ chức hành nghề lừa đảo.

1.Phong – Lừa đảo được bày trận tổ chức đến và đi nhanh như một cơn gió

Phong, còn gọi là “ong”, gặp chữ này thì biết là do một tổ chức gây án, giống như loài ong mật lũ lượt kéo đến, thoắt cái mất hút, đến nhanh mà đi cũng nhanh. Lấy một ví dụ:

Cuối đời Thanh, triều đình hủ bại, quan viên làm chuyện phi pháp đều tìm cách luồn trên lót dưới, bỏ ra số tiền lớn nhằm trốn tội. Một viên Tuần phủ Sơn Đông tham ô bị tố cáo, cả nhà cuống cuồng lo lắng. Đang chuẩn bị tiền bạc lo lót, bỗng phát hiện một nhóm người lạ mặt vào thành, bí mật trọ trong khách điếm, y phục khác lạ, nói khẩu âm Bắc Kinh. Tuần phủ thoạt nhìn là biết: “Đây hẳn là người của Đô sát viện trên kinh thành đến điều tra ta!”.

Hôm sau, Tuần phủ phái người đến khách điếm bắn tin, xin được hội kiến

Sau khi vào khách điếm, tên gia nhân một mặt đưa tin, một mặt quan sát động tĩnh. Đám người này cố ý tỏ ra cảnh giác đề phòng, nói rằng thân mang trọng trách, không tiện tiếp khách.

Bị từ chối gặp mặt, tên gia nhân vội quay về báo cáo. Tuần phủ nghe vậy, trong lòng đã có tính toán trước, hôm sau chuẩn bị ngân phiếu 20 vạn lạng sai gia nhân đưa đến khách điếm.

Tên gia nhân đem ngân phiếu đi, rồi quay về với ba thước lụa trắng.

Tuần phủ thấy dải lụa thì vô cùng hoảng sợ: “Đây là ý của quan trên – treo cổ tự vẫn.”

Tuần phủ tìm đủ mọi cách, chạy vạy khắp nơi, gom thêm 20 vạn lạng nữa, trời còn chưa sáng liền phái người đem đi. Lần này tên gia nhân mang về một dải lông công dùng gắn lên mũ quan lại, bên ngoài có một nút kết bình an.

Tuần phủ thấy vậy thở phào, vậy là giữ được cái đầu: “Ngắt đi dải lông công, giáng xuống làm dân thường.” Nhưng bản thân tốn 40 vạn lạng bạc, không thể để giáng thành dân thường như vậy được, phải tiếp tục lo lót, bao nhiêu phỉ thúy mắt mèo, vòng ngọc, ngọc bội trong nhà đều đem cả ra, dẫu là chức Huyện lệnh cũng được, một thời gian sau sẽ thu lại vốn liếng.

Nhóm người này nhận được đồ rồi, biết rằng viên Tuần phủ đã dốc hết gia sản thì nhanh chóng chuồn mất.

Tuần phủ vẫn chắc mẩm chờ tin, không lâu sau người của Đô sát viện thật đến. Viên Tuần phủ thấy họ bước vào cửa, hiển nhiên là hỏi han việc đó, vội niềm nở đón tiếp: “Không biết niên huynh giá đáo, nên không đón tiếp từ xa!”.

Người của Đô sát viện thấy viên Tuần phủ này thật kỳ lạ, chết đến nơi rồi mà vẫn vui mừng như vậy.

“Tuần phủ đại nhân tự nói đi!” Quan Đô sát muốn ông ta tự nhận tội.

Tuần phủ nghe vậy, mặt mày hớn hở, cho là để mình tùy ý chọn một chức quan: “Niên huynh à, hàng Tri châu ngũ phẩm là được rồi! Nếu quả thực không được, tôi sẽ về quê làm chân Tri huyện.”

Quan Đô sát ngây người ra: “Ông nói gì cơ?”

“Ý của niên huynh là?”

“Tên này đầu óc có vấn đề, mau giải lên kinh thẩm tra!” Quan Đô sát ra lệnh, binh lính liền gô cổ lão Tuần phủ lại.

Lúc này Tuần phủ chợt hiểu ra, lớn tiếng mắng nhiếc: “Đồ tham lam, ngươi thật quá độc ác! Nuốt của ta 40 vạn lượng, giờ trở mặt không nhận người!”.

Quan Đô sát tức tím cả mặt: “Tên khốn kiếp nhà ngươi dám ngậm máu phun người, đánh hắn cho ta!”.

Lúc này đám lừa đảo đã cao chạy xa bay sau này có phát truy nã nhưng cũng không bắt được. Đây chính là “Phong, thoắt đến thoắt đi.

Tam Bá đầu giảng xong, mọi người cười rộ lên, ngay cả Tam Bá đầu Trương Tự Triêm thường ngày u sầu cũng cười theo.

Tam Bá đầu nhấp một ngụm trà, tiếp tục giảng về “Mã”.

2.Mã – Đơn thương độc mã

chính là đơn thương độc mã, một mình hành nghề lừa đảo, ngược lại với Phong. Loại này không giả đạo nhân thì đóng tăng nhân, khiến người ta có cảm giác là bậc cao nhân đắc đạo. Cuối đời Thanh, Tiền Đường Tăng chính là một ví dụ điển hình.

Một phú hào họ Trương thích làm việc thiện. Một hôm trước cửa nhà ông xuất hiện một người ăn mặc theo lối hòa thượng, lên tiếng gọi to: “Cho tôi 100 lạng bạc!”

Ông Trương mở cửa ra xem: “Ông là ai? Dựa vào đâu mà đòi ta 100 lạng bạc?”

“Không cho tôi sẽ ngồi mãi ở đây!” nói rồi ngồi bệt xuống trước cửa. Lúc đó, ngày đông tháng chạp giá rét, gió lạnh thấu xương.

Ông Trương động lòng: “Cao tăng, có gì vào nhà rồi nói.”

“Không.” vị hòa thượng liền ngồi xếp bằng, khe khẽ nhắm mắt”.

Cứ như vậy, vị hòa thượng ngồi yên bất động ba ngày ba đêm liền, không ăn không uống. Mọi người đều cho rằng ông ấy chết cóng rồi, lại gần thì thấy hơi thở vẫn đều, mặt mũi hồng hào, bèn ngạc nhiên nói: “Quả là cao tăng đắc đạo, người thường không chết rét thì cũng chết đói rồi!”

Thế nhưng, ông Trương vẫn không cho tiền.

Vị hòa thượng đó mở to mắt, nói với ông Trương: “Ông có tin ta dùng Như Lai thần chưởng đánh chết ông không?”

“Người xuất gia tấm lòng từ bi, cao tăng sẽ không đánh chết ta đâu.” Ông Trương mỉm cười nói.

Vị hòa thượng gật gù, nói: “Cho ông mở rộng tầm mắt!” Nói đoạn chắp hai tay trước ngực, xoay một cái rất mạnh, hai tay lập tức bùng lên ngọn lửa màu xanh lam, nhưng không hề tỏ ra đau đớn.

Ai nấy chứng kiến đều kinh hãi tột độ: “Thần tiên giáng trần!”

Ông Trương vẫn không đồng ý.

Hòa thượng cuối cùng hết chiêu, móc ra một sợi dây thừng, buộc lên vòng cửa nhà họ Trương rồi châm lửa, hô to: “Ta sẽ dùng Tam muội chân hỏa đốt chết ngươi!” Nói rồi phủi mông bỏ đi.

Thấy sợi dây thừng đó cháy không ngừng nhưng không hề bị đứt, mọi người đều sợ hãi bảo ông Trương: “Đây là đích thực là thần tiên, ngài hãy cho ông ta tiền đi.”

Ông Trương vẫn chỉ mỉm cười không nói.

Hai hôm sau, tên hòa thượng đó lén lút quay lại, gõ cửa nhà ông Trương.

“Làm sao mà ông biết được?” hòa thượng hỏi.

Ông Trương mỉm cười, nói: “Nếu ông không giở những trò này, chưa biết chừng tôi sẽ cho mấy đồng. Ông làm như vậy tôi lại càng muốn chơi với ông. Nếu ai đến tôi cũng khờ khạo cho tiền, vậy há chẳng phải kẻ ngốc sao?”

“Ha ha!”, hòa thượng cười vang.

“Ông ba ngày ba đêm không ăn không uống, không chết đói cũng chẳng chết rét, người khác không biết nhưng ta thì biết thừa. Khi ông mới đến trên cổ đeo một vòng tràng hạt, ta đếm được 36 hạt, ba ngày sau còn có 30 hạt, những hạt châu này được làm từ nhân sâm, có công dụng trừ hàn giữ ấm, kháng bệnh duy trì sinh lực, mỗi ngày ăn hai viên sẽ không việc gì.”

“Ha ha!”, hòa thượng lại cười vang.

“Chiêu Như Lai thần chưởng đó thực chất là bôi một lớp hồ bột có pha thêm phốt-pho lên tay, phốt-pho tuy có thể tự cháy nhưng không làm bỏng được tay ông; còn về sợi dây thừng đốt mãi không đứt đó chắc chắn được ngâm qua nước chat, những kiến thức này tôi đều biết cả.”

“Ha ha ha,” hòa thượng cười một cách sảng khoái, “đúng là không đánh thì không biết nhau. Bỉ nhân hao tâm tổn sức để lừa ngài, dù không có công thì cũng có cán, ngài nên thưởng cho tôi đôi lạng chứ!

Ông Trương mỉm cười: “Với trí thông minh này, làm nghề gì đó chẳng tốt hơn sao?” nói rồi lấy một thỏi bạc đưa cho hắn, “hãy kiếm ăn nghiêm chỉnh đi.”

Hòa thượng cầm bạc, ngửa mặt lên trời cười lớn rồi bước ra khỏi cổng.

Lúc sau, ông Trương mới giật mình: “Ôi chao, mình vẫn bị lừa.”

Tam Bá đầu kể đến đây, Đại Bá đầu cười nói: “Tên hòa thượng này còn kém xa Tổ Gia, hắn chỉ dùng đạo cụ để lừa đảo, chả có tý trí tuệ nào.”

Tổ Gia mỉm cười lắc đầu: “Dẫu sao cũng đã lừa được tiền.”

3.Yến – Dùng nhan sắc để lừa đảo

Tam Bá đầu tiếp tục giảng đến “Yến”.

Yến còn gọi là “nhan”, tức chỉ sắc đẹp, xuất phát từ câu “Nhan như ngọc” trong một bài thơ cổ. Yến dùng để chỉ kẻ chuyên dung sắc đẹp để lừa đảo, đây không đơn thuần chỉ mỹ nữ, mà còn cả mỹ nam nữa. Nữ lừa nam, nam lừa nữ, chỉ cần đối phương có tâm háo sắc là sẽ mắc lừa.

Cuối đời Thanh, đám con cháu Bát kỳ bỏ bê chức trách, có một số vị bối lạc gia ăn không ngồi rỗi, cả ngày đi qua đi lại ngõ Bát Đại, uống rượu, chơi gái. Lúc này, đám mỹ nữ lừa đảo lợi dụng sơ hở chui vào.

Dạng lừa đảo này có trình độ và học thức cao, biết cầm kỳ thi họa, ngâm thơ điền từ, thỉnh thoảng còn có thể bàn luận tình hình quốc gia đại sự, tán gẫu thế cuộc, lúc thì dựng lên hoàn cảnh bi đát, bất đắc dĩ rơi vào chốn gió trăng này.

Bối lạc gia tất sẽ hỏi rằng: “Cô nương cớ sao lại lo âu phiền muộn như vậy?”

“Ngài không biết đó thôi, tiểu nữ vốn là người ở vùng này vùng kia, bởi gia đạo suy vi mới trôi dạt đến đây, trầm luân trong kiếp phong trần.”

Bối lạc gia bỗng ngỏ lời: “Ta chuộc nàng khỏi chốn này nhé?”

“Tiểu nữ chỉ là kẻ ti tiện, đâu dám để ngài phải nhọc lòng.”

“Cô nương khiêm tốn rồi, có điều cô nương chẳng thể bước vào cổng chính nhà ta được, ta chỉ có thể mua một căn nhà ở ngoài thành, lấy nàng làm lẽ mà thôi.” Bối lạc gia tính toán.

“Vậy thì… tiểu nữ nguyện làm thân trâu ngựa cho ngài!” Mỹ nữ lừa đảo quỳ xuống, vừa khóc vừa nói.

“Mau đứng dậy! Ở đây ta có tờ ngân phiếu năm trăm lạng, nàng hãy cầm lấy đi chuộc thân!”

“Đa tạ!” Cô ta nhận lấy, bước khỏi cửa rồi nhanh chóng chuồn mất, người chồng đợi sẵn bên ngoài vội giúp hóa trang thay đổi y phục, hai người trốn khỏi kinh thành ngay trong đêm.

Đến khi trời sáng, vị bối lạc gia phát hiện ra thì đã quá muộn.

“Ha ha ha!” Nhị Bá đầu cười phá lên, “đồ đần độn, nếu là ta, cho một liều mê hồn tán vật ra đây, xử lý xong rồi hãy nói.”

Tổ Gia cười nói: “Sắc đẹp giấu dao, bất luận là nam hay nữ, một khi bị sắc đẹp làm cho mụ mị, sớm muộn gì cũng xảy ra chuyện.”

4. Tước – Tìm chỗ Khuyết để lừa đảo

“Tổ Gia dạy rất phải,” Tam Bá đầu nói tiếp, “tiếp theo nói đến ‘Tước’, đây là kẻ có sở trường vạch kế hoạch!”

Tước hay còn gọi là “khuyết”, nghĩa là chỗ khuyết, chỉ trên quan trường, nơi nào còn khuyết chức quan nào đó, sẽ có kẻ đến nhậm chức, lấp vào chỗ trống.

Một màn lừa đảo lớn như vậy cần hội đủ nhiều yếu tố, liên quan đến nhiều người, kẻ lừa đảo phải bày mưu tính kế, đến khi hoàn thành mới ôm ngàn quan tiền mà cao chạy xa bay.

Thông thường nhóm lừa đảo này gồm: thiếu phụ xinh đẹp, có tri thức, hiểu lễ nghĩa, dáng vẻ mềm mại yểu điệu, nội tâm thâm độc vô cùng; sư gia, thân phận thực sự của những người này thường là chồng hoặc nhân tình của thiếu phụ, tóm lại hai kẻ phối hợp ăn ý, câu kết với nhau; chuyên gia đạo cụ, giỏi nghề khắc dấu, làm quan ấn, quan bằng; sát thủ, thường do đích thân sư gia đảm nhiệm, cũng có thể là sát thủ chuyên nghiệp, nhưng điều kiện phải là người thân cận của thiếu phụ và sư gia, thông thường là đệ tử hoặc con trai; chim mồi khờ khạo, là bọn văn nhân bất đắc chí, ôm bầu nhiệt huyết báo quốc nhưng lại không có đất để dụng võ.

Năm đầu Dân Quốc, ở Tứ Xuyên từng xảy ra một vụ lừa đảo như vậy.

Trước tiên sư gia thu thập thông tin, thấy huyện trưởng nơi nào đó sắp thuyên chuyển, tức sẽ có vị huyện trưởng mới đến trám vào. Thời điểm đó nạn buôn quan bán chức rộ lên, có khi một kẻ kiêm nhiệm huyện trưởng của bảy tám huyện, huyện trưởng mới cũ đến đi tấp nập, dân chúng còn chẳng rõ rốt cuộc ai mới là huyện trưởng. Mà khi huyện trưởng đến nhậm chức chỉ cần một bức thư ủy nhiệm, dẫn theo một trợ lý là có thể làm việc, chẳng ai biết được đâu là thật đâu là giả.

Sư gia nghe ngóng được huyện trưởng nơi nào đó sắp đến nhậm chức thì thu thập thông tin và địa chỉ của đám văn nhân nơi đó, rồi bắt đầu lập bẫy.

Ngày huyện trưởng mới đến nhậm chức, sư gia bố trí sát thủ mai phục bên đường, gài mìn giết chết viên huyện trưởng, sau đó đoạt lấy công văn nhậm chức.

Giết chết viên huyện trưởng rồi, bắt đầu đến tìm đám văn nhân đã nhắm trước đó.

Đám văn nhân ở nhà rảnh rỗi không có việc gì làm, lúc này chợt có tiếng gõ cửa. Mở ra thấy sư gia đứng đó, khẩn khoản xin: “Tiên sinh, phu nhân nhà tôi gặp nạn, xin ngài cho tá túc một đêm.”

Văn nhân thường là những kẻ đa tình, lại thấy thiếu phụ đứng sau dáng vẻ yêu kiều, bèn động lòng thương xót: “Có gì vào nhà hãy nói.”

“Các ngài làm nghề gì? Vì sao lại lưu lạc đến đây?” Văn nhân hỏi.

“Vâng…” Vị phu nhân thút thít bước vào nhà.

“Ôi,” sư gia bắt đầu kể, “chúng tôi đến nhậm chức huyện trưởng, lão gia nhà tôi chi 40 vạn lạng bạc mới mua được chức này. Tôi là sư gia, hôm nay theo cả nhà lão gia đến nhậm chức, không ngờ gặp phải thổ phỉ trong núi, chúng đặt mìn khiến xe kiệu nổ tan tành, lão gia thì mất mạng, tiền bạc bị cướp hết, chỉ có phu nhân và con trai may mắn thoát chết…” Nói rồi chỉ vào tên sát thủ giết huyện trưởng ban ngày.

“Ừm,” văn nhân gật đầu cảm thông, “thật tội quá.”

“Nay lão gia chết rồi, chúng tôi cũng không biết phải làm sao nữa,” tên sư gia rơm rớm nước mắt, đoạn hỏi, “tiên sinh làm nghề gì?”

Văn nhân thở dài, kể lể: “Tôi là Tú tài khóa cuối cùng của nhà Thanh, có thi cử nhân nhưng không đỗ, sau này chế độ khoa cử bị hủy bỏ, nay đã quá tuổi nhi lập mà chẳng làm nên trò trống gì.”

“Hả?” Sư gia làm bộ ngạc nhiên, “Tiên sinh là người am hiểu thi thư đây ư?”

“Không dám, không dám.” Tú tài đỏ mặt.

Sư gia ra vẻ nghĩ ngợi giây lát, rồi đột nhiên kêu to: “Phu nhân, được cứu rồi, được cứu rồi!”

Tú tài giật nảy: “Ông vừa nói gì?”

Sư gia nước mắt lưng tròng, nói: “Tiên sinh, chỉ có ngài mới cứu được phu nhân nhà tôi.”

“Sao ông lại nói như vậy?”

“Tiên sinh, lão gia nhà tôi bỏ ra số tiền tích góp cả nửa đời người mới mua được chức quan này, vậy mà chưa một ngày ngồi vào ghế huyện trưởng thì đã bị hại chết, thật oan uổng quá… Tiền cũng đã chi rồi, mối quan hệ cũng thông rồi, chỉ thiếu lên nhậm chức mà thôi, nay phu nhân nhà tôi cô nhi quả mẫu, cần tiền tiền hết, cần người người chết, không nơi nương tựa. Nếu… nếu tiên sinh không chê, hãy lấy phu nhân nhà chúng tôi, sau đó cầm công văn đi nhậm chức, ngài am hiểu thi thư, tất biết cách trị quốc an bang, cai quản cái huyện nhỏ bé này thật quá đơn giản! Như vậy tiền của chúng tôi bỏ ra cũng không phải là vô ích, phu nhân cũng có người nương
tựa. Sau khi tiên sinh nhậm chức, có thể phát huy tài năng, tận tâm báo quốc, há chẳng phải là một mũi tên trúng ba bốn đích ư?” Sư gia nói xong nhìn Tú tài.

Tú tài nghe vậy mừng như mở cờ trong lòng, nhưng vẫn lạnh lùng nói: “Ông đang nói gì thế? Phu nhân nhà ông gặp nạn, là sư gia không nghĩ kế tạm thời nào đó, lại đi làm việc cẩu thả này, có dụng ý gì đây?”

Đám lừa đảo này đã nghiên cứu kỹ tâm lý của hạng văn nhân, tú tài bất đắc chí. Lúc này vị phu nhân vén rèm lên nước mắt lã chã bước ra, nói với sư gia: “Tiên sinh đây là người am hiểu thi thư, phẩm chất thanh cao, ta thân hoa tàn nhụy héo đâu xứng với tiên sinh…”

Tú tài thấy vậy thì không thể làm ra vẻ thêm được nữa, vội nói: “Lời phu nhân khiến tôi đoản thọ mất, tôi không hề có ý ghét bỏ phu nhân… chỉ là… chỉ là…”

Phu nhân gạt lệ, ánh mắt thiết tha: “Tiên… sinh…”

Tú tài bủn rủn cả người.

Tên sư gia cười lớn: “Ông trời không tuyệt đường ai bao giờ, ý trời tác thành, ý trời tác thành!”

Và sau đó, Tú tài lấy vị phu nhân rồi lên đường nhậm chức, long dạ hỉ hả, vênh vang đắc ý, chỉ muốn đem tất cả tài hoa ra để thực hiện hoài bão lớn lao đã bị kim hãm bấy lâu.

Trong phòng thu chi, sư gia và phu nhân âm thầm tính toán, Tú tài nhậm chức vài tháng, hai người liền lập khống nhiều khoản, vơ vét mười mấy vạn lạng bạc.

Tú tài ban ngày thụ lý án, đêm về ôm người đẹp ngủ, hạnh phúc ngất ngây. Sau tên sư gia lại tặng cho tẩu hút thuốc phiện, nói rằng thứ đồ chơi này có tác dụng hưng phấn tinh thần, ích khí tráng dương, thế là Tú tài lại chìm đắm trong thuốc phiện. Cứ như vậy sau một năm, ngày việc công bận rộn, đêm chiến đấu trên giường, Tú tài chỉ còn da bọc xương, hơi thở yếu ớt. Sư gia và phu nhân thấy hắn không còn giá trị lợi dụng, vào một buổi tối khi Tú tài đang mơ màng ngủ, chúng dùng gối giết anh ta một cách êm thấm, sau đó gom tất cả ngân phiếu bỏ trốn.

Dân trong huyện mấy ngày không thấy huyện lệnh, oán than dậy đất. Quan trên biết tin, vội phái người xuống điều tra, cổng nha môn mở ra, bên trong đồ đạc trống rỗng, bước vào hậu đường thì một mùi hôi thối nồng nặc xộc lên, thi thể huyện lệnh đang bị phân hủy, dòi bọ lúc nhúc.

Nghe đến đây, Tổ Gia thở dài: “Đây là một vụ án điển hình. Sau này chính phủ Dân Quốc có điều tra sự việc này, cũng không tìm được nhóm lừa đảo đó. Than ôi, ác nghiệp gây ra trước kia, đều do tham sân si vô cùng vô tận, kinh Phật nói quả không sai, bản tính con người vốn yếu đuối, một khi tham sân si nổi lên, sẽ mở toang cánh cửa dẫn đến tội ác. Liễu Phàm tứ huấn có câu: ‘Tạo mệnh tại thiên, lập mệnh tại nhân’, là phúc hay họa đều ở lòng người mà ra cả.”

“Chúng ta cũng có thể lừa được như vậy, thậm chí còn làm tốt hơn!” Nhị Bá đầu bỗng lên tiếng.

Tổ Gia lắc đầu: “Chúng ta không làm những việc hãm hại trung lương, bởi sớm muộn gì cũng gặp báo ứng.”

“Phong, mã, yên, tước, từ, kim, bình, bì, thái, quải, nói được bốn loại rồi, còn sau nữa, nói tiếp đi!” Tiểu Lục Tử nóng lòng giục.

Tam Bá đầu nhấp một hớp trà, nói: “Lục đệ chớ nôn nóng, tiếp theo nói đến Từ.”

5. Từ – Đánh vỡ bình gốm hay trò ăn vạ

Từ, chính là đánh vỡ bình gốm. Vùng Thiên Tân rất phổ biến trò này: anh đang đi trên phố, một bà cụ ôm chiếc bình gốm cố ý lao đến va phải, chiếc bình rơi xuống đất vỡ tan, còn bà lão ngã vật ra bất tỉnh nhân sự. Lúc này con lớn con bé, thậm chí cả cháu chắt không biết từ đâu xông ra khóc mẹ kêu cha, rồi lớn tiếng dọa báo quan! Lúc này trong đám đông xuất hiện một người tốt, nói với anh rằng: họ báo quan phủ rồi sẽ lớn chuyện đây, cho họ mấy chục lạng bạc để họ đi là xong. Đợi anh lộn hết túi, dốc hết tiền cho họ rồi, họ sẽ cõng bà lão đi ngay, nói là đi tìm đại phu, kỳ thực là chui vào đâu đó chia chác.

“Nếu đụng nhầm quan gia thì làm thế nào?” Lục Bá đầu chợt hỏi một câu.

“Làm thế nào à?” Tam Bá đầu nhướng mắt, “thì coi như đen thôi! Từng có mấy gã ngu đụng phải Lý Hồng Chương cải trang vi hành ở Thiên Tân, chúng nằm lăn lộn dưới đất quyết không chịu đứng dậy, cuối cùng quan binh đến quát rằng các ngươi đã không muốn dậy thì cứ nằm đây đừng dậy nữa! Đám người đó thấy tình hình không ổn, vội lồm cồm bò dậy, ôm chân Lý Hồng Chương nói rằng chúng tôi chỉ đùa ngài chút cho vui thôi. Lý Hồng Chương đâu phải là người vui tính, thế là ông ra lệnh gô cổ mây tên ngốc đó xử theo pháp luật!”

“Ha ha ha ha!… ” mấy bá đầu cười vang.

6. Kim – Thầy tướng số

Tam Bá đầu tiếp tục: “Kim chính là thầy tướng số, tức là người như chúng ta đây;

7. Bình – Kẻ bình thư

Bình, là kẻ Bình thư đầu đường cuối ngõ để thu hút nhiều người đến nghe hơn, kiếm được nhiều tiền hơn, chỉ với một đoạn chuyện rất ngắn họ thêm mắm dặm muối, kéo dài lê thê, chính sử dã sử, thêu dật vô căn cứ, mục đích là lừa dân chúng nghe đến nỗi mê mẩn tâm thần, có như vậy thu nhập mới không đứt đoạn;

8. Bì – Bán thuốc

chính là bán thuốc, trong chiếc hồ lô đựng các loại thuốc vớ vẩn, vô tác dụng, nhưng với dân chúng nghèo khổ không mấy hiểu biết, đây lại chính là tiên đan diệu dược, với kẻ lừa đảo đây chính là bảo bối hành nghề;

9. Thái – Nghệ thuật biến hóa

Thải chính là nghệ thuật biến hóa, người phương Tây gọi là ảo thuật, như: từ trong tay áo bay ra con chim bồ câu, trên đầu bốc khói, cách không lấy vật, miệng nở sen trắng, đó đều là mánh khóe của kẻ lừa đảo;

10. Quải – Mãi nghệ trên phố

Quải chính là mãi nghệ trên phố, vừa biểu diễn vừa bán thuốc, mở màn là dùng chùy đập vỡ phiến đá trên ngực, rồi đến đâm kiếm vào họng, hoặc tay không chặt gạch, hoặc dùng tay vớt đồng tiền trong chảo dầu sôi, sau đó phô trương khoe mẽ khí công của mình lợi hại ra sao, rồi nói đây đều là nhờ ‘đại lực hoàn’, tiếp sau đó bắt đầu bán thuốc, tất cả đều là lừa đảo…”.

Đêm đó, dường như anh em Đường khẩu được hành tẩu trong giới giang hồ xưa, Tam Bá đầu say sưa giảng giải, mặt mũi hớn hở, anh em nghe như mê như say. Sau này, những thuật lừa đảo đó dần được vạch trần trên tờ Thời ngôn báo ở Bắc Bình bởi một người có bút danh là Vân Du Khách, rồi được tập hợp thành sách với tên gọi Giang hồ tùng đàm. Vị Vân Du Khách này chính là nhà phê bình nghệ thuật nổi tiếng Trung Quốc – Liên Khoát Như.

Tôi là Thầy tướng số

Trả lời